Cùng là láng giềng trong khu vực, Việt Nam và Trung Hoa có
nhiều nét văn hóa tương đồng nhau đại diện cho văn hóa phương Đông. Hơn nữa thời
kỳ Bắc thuộc nước ta cũng bị ảnh hưởng phần lớn nền văn hóa Trung Quốc du nhập
sang. Cờ tướng vì thế mà có mặt trên lãnh thổ nước ta khá sớm và trở thành món
ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của con người Việt Nam.
Tuy nhiên thời kỳ hòa bình lập lại cũng là lúc mà cờ tướng
nước ta có sự biến đổi khác so với cờ tướng Trung Hoa.
1. Khác nhau về tên gọi
Từ cổ xưa cho đến tận bây giờ người Việt Nam vẫn dùng thuật
ngữ “Cờ Tướng” để chỉ môn cờ mà ở đó có 32 quân (mỗi bên gồm 16 quân viết bằng
chữ Hán với 1 Tướng, 2 Sĩ, 2 Tượng, 2 Xe, 2 Pháo, 2 Mã và 5 Tốt), được bày trên
một bàn cờ với 10 đường kẻ ngang và 9 đường kẻ dọc, có cửu cung ở giữa và có
dòng sông (được gọi là hà) ngăn đôi ở giữa bàn cờ. Người Việt Nam gọi tên môn cờ
này theo tên gọi của quân Tướng là quân quan trọng nhất trên bàn cờ, đó là “Cờ
Tướng” (General Chess).
Tuy nhiên, cờ này ở Trung Hoa được gọi là “Tượng kỳ” theo
nghĩa chữ Hán là cờ hình tượng (không phải vì có quân Tượng trên bàn cờ). Tên gọi
này bắt nguồn từ khi trò chơi Chaturanga mới du nhập vào Trung Hoa, khi đó các
quân cờ có hình tượng và có độ cao như cờ Vua ngày nay. Sau này khi chuyển đổi
thành quân cờ tròn và dẹt, có chữ Hán viết ở trên, người Trung Hoa vẫn giữ
nguyên tên gọi là “Tượng kỳ” (Xiangqi).
2. Khác nhau về tên gọi của các quân cờ
Từ xa xưa ở Việt Nam xuất hiện 2 loại trò chơi giống hệt
nhau là cờ tướng và trò chơi có tên gọi “Tam cúc”
Trong bộ bài Tam cúc có 32 quân, gồm 16 quân đỏ và 16 quân
đen. Mỗi bên có 1 Tướng, 2 Sĩ, 2 Tượng, 2 Xe, 2 Pháo, 2 Mã và 5 Tốt. Chữ Hán
dùng để thể hiện 7 loại quân này giống hệt nhau ở cả 2 bên và chỉ khác nhau về
mầu sắc (đỏ và đen).
Cờ tướng Việt Nam khác tượng kỳ Trung Hoa ở những điểm nào?
Từ cổ chí kim 7 loại quân cờ trên bàn cờ Tướng Việt Nam vẫn
thống nhất với tên của 7 loại lá bài trong bộ Tam cúc Việt Nam là: Tướng, Sĩ,
Tượng, Xe, Pháo, Mã, Tốt và cách viết chữ Hán cổ (Tiếng Việt cổ của người Việt
Nam bao gồm 3 loại chữ: Hán, Nôm và chữ quốc ngữ) trên 7 loại quân cờ Tướng và
trên bộ bài lá Tam cúc là thống nhất hoàn toàn cho cả 2 bên và chỉ phân biệt bằng
màu (đỏ và đen, trắng và đen, đỏ và xanh…): Đó là bộ quân cờ Tướng của Việt Nam
Về tên gọi của quân cờ trong cách ghi biên bản ván cờ Tướng
bằng tiếng Việt hiện nay và trước đây, ghi ký hiệu viết tắt thống nhất cho cả 2
bên, được quy ước như sau:
Tướng = Tg Sĩ =
S Xe = X Mã = M
Tượng = T Pháo = P Tốt = B
Có một thời (ở nửa sau của thế kỷ 20) chúng ta đã quy định
Tượng viết tắt là V (tức Voi) và Tốt viết tắt là T. Cách quy định này tránh được
sự trùng lặp và lại giữ được sự trong sáng của tiếng Việt. Song từ năm 1999,
sau khi có Luật cờ Tướng sửa đổi cách ghi biên bản với quân Tượng là T và với
quân Tốt là B (tức Binh, âm Hán cũng có nghĩa là người lính, tức Tốt). Ghi theo
cách này chúng ta đã vay mượn chữ Hán (tức Trung Hoa hóa) cả 2 từ Tượng và Binh
để chỉ tên gọi của quân cờ.
Trong khi đó, quân “Tượng kỳ” (cờ Tượng) của Trung Hoa lại
có sự khác nhau trong cả cách viết chữ Hán lẫn mầu sắc của 7 loại quân cờ của 2
bên. Từ nhiều thế kỷ qua đến tận bây giờ ở Trung Hoa tồn tại 2 loại bộ quân Tượng
kỳ có cách viết chữ Hán khác nhau.
Loại thứ nhất, một bên có 7 loại quân là Tướng, Sĩ, Tượng,
Xe, Pháo, Mã, Binh (Hình 5, nhóm 7 quân bên dưới), còn bên kia có 7 loại quân
là Soái, Sĩ, Tương, Xe, Pháo, Mã, Tốt.
Như vậy cả 7 loại quân cờ của 2 bên khác nhau hoàn toàn về
chữ viết. Loại quân Tượng kỳ này thường được lưu hành ở vùng nói tiếng Quảng
Đông, chủ yếu là ở vùng Đông Nam Trung Hoa xưa, Hồng Kông, Ma Cao…
Loại thứ hai, một bên có 7 quân là Tướng, Sĩ, Tượng, Xe,
Pháo, Mã, Tốt (Hình 6, 7 quân bên trên), còn bên kia có 7 loại quân là Soái,
Sĩ, Tương, Xe, Pháo, Mã, Binh (Hình 6, 7 quân bên dưới). Như vậy 2 bên có 3 loại
quân Xe, Pháo, Mã viết chữ Hán giống hệt nhau, song 4 loại quân còn lại có chữ
Hán viết khác nhau. Loại quân Tượng kỳ này thường được lưu hành ở khu vực nói
tiếng phổ thông Trung Hoa (miền Bắc, Trung và Tây Nam Trung Hoa, là khu vực đa
dạng ngôn ngữ được biết đến dưới tên chung là tiếng Quan Thoại; Đài Loan; Đây
cũng là 1 trong 4 ngôn ngữ chính thức tại Singapore).
Như vậy khi thi đấu cờ Tướng ở Việt Nam mà lại dùng quân của
1 trong 2 loại bộ Tượng kỳ Trung Hoa thì thật là khập khiễng, nhất là khi ghi
biên bản ván cờ, chữ viết tắt của 2 bên như nhau (Tướng: Tg, Sĩ: S, Tượng: T,
Xe: X, Pháo: P, Mã: M, Tốt: B), trong khi tên quân cờ chữ Hán lại khác nhau,
nghĩa dịch sang tiếng Việt cũng khác nhau thì quả là điều bất cập!
Vậy là ở Việt Nam chỉ có 1 loại bộ quân cờ Tướng truyền thống,
với 7 loại quân Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo (bộ thạch), Mã, Tốt được viết bằng
chữ Hán, giống nhau cho cả 2 bên, song chỉ khác nhau về màu sắc. Còn ở Trung
Hoa có 2 loại bộ quân Tượng kỳ, với 7 loại quân cờ được viết bằng chữ Hán khác
nhau cho cả 2 bên, đồng thời cũng khác nhau về mầu sắc. Một loại bộ quân Tượng
kỳ thường dùng ở vùng nói tiếng Quảng Đông, loại bộ quân Tượng kỳ còn lại thường
dùng ở vùng nói tiếng phổ thông Trung Hoa.
Đó là sự khác nhau thứ 2, giữa bộ quân cờ Tướng Việt Nam và
bộ quân Tượng kỳ Trung Hoa.
3. Sự khác nhau về cách ghi biên bản ván cờ
Từ khi mới bước chân vào Việt Nam cho đến cuối năm 1954,
biên bản ván cờ tướng vẫn được giữ nguyên gốc của nó. Tuy nhiên, sau năm 1954,
cách ghi biên bản này đã được thay đổi để phù hợp với lối chơi của người Việt
Nam, cách ghi biên bản này còn tồn tại cho đến ngay nay.
Trên bàn cờ Tướng Việt Nam xưa, 9 cột dọc được ký hiệu bằng
chữ in hoa, thứ tự từ trái qua phải là: A, B, C, D, Đ, E, G, H, I; Còn 10 hàng
ngang được ký hiệu bằng số, thứ tự từ dưới (bên đi trước) lên (bên đi sau) là:
10, 9, 8, 7, 6, 5, 4, 3, 2, 1 (xem hình 4 bên trên).
Hình 4 là ảnh chụp ván cờ của trận chung kết Giải vô địch cờ
Tướng chợ phiên Hà Nội 1953, thi đấu tại khu vực Võ sĩ đoàn, đối diện với nhà
hàng Thủy Tạ bên bờ hồ Hoàn Kiếm, giữa danh thủ Nguyễn Tấn Thọ (Hà Nội, bên đi
trước) và danh thủ Đặng Đình Yến (Hà Nội, bên đi sau, người đã thắng ván cờ này
và đoạt giải quán quân 1953). Sau 4 nước đi đầu tiên biên bản ván cờ được ghi
(theo 3 cách để có sự so sánh: trước 1955, trước 1999 và từ 1999 đến nay) như
sau:
Qua cách ghi biên bản ván cờ của 3 thời kỳ khác nhau ta thấy
rằng cách ghi biên bản ván cờ Tướng truyền thống của Việt Nam trước năm 1955 là
hết sức khoa học: ghi theo tọa độ của điểm mà quân cờ sẽ đi đến mà không cần có
thêm các ký hiệu tiến, thoái, bình nữa. Cách ghi biên bản này gần giống với cách
ghi biên bản cờ Vua ngày nay.
Trong khi đó cách ghi biên bản ván Tượng kỳ của Trung Hoa gần
giống cách ghi biên bản của Việt Nam từ sau năm 1999. Đó là sự khác nhau thứ 3
về cách ghi biên bản ván cờ giữa cờ Tướng truyền thống của Việt Nam và Tượng kỳ
Trung Hoa.
4. Sự khác nhau về tính phù hợp của 4 binh chủng hợp thành
Môn chơi thời cổ Chaturanga ở Ấn Độ có nghĩa là 4 binh chủng
quân đội thời đó hợp thành: chiến xa, tượng binh, kỵ binh và bộ binh, trong đó
3 loại binh chủng chiến xa, kỵ binh và bộ binh thì rất phổ biến và hầu như quốc
gia nào cũng có. Chỉ có tượng binh là binh chủng rất đặc biệt bởi đầu tiên nước
đó phải có nhiều voi và sau đó voi phải được huấn luyện để tham gia chiến đấu.
Voi chiến (tượng binh) là voi được huấn luyện dưới sự chỉ huy
của con người để giao chiến. Mục đích chính là tấn công đối phương, dày xéo và
phá vỡ hàng ngũ của quân địch. Chúng được sử dụng đầu tiên ở Ấn Độ, sau phép
dùng voi chiến lan sang vùng Đông Nam Á và Trung Đông tới tận Địa Trung Hải.
Theo sử cũ Hy Lạp cổ đại, quân Ấn Độ đã dùng tượng binh chống trả khi Nữ hoàng
Semiramis của Đế quốc Assyria mở cuộc hành chinh đánh sang Ấn Độ. Cyrus Đại Đế
của Đế quốc Ba Tư (năm 530 TCN) và Alexandros Đại Đế của Vương quốc Macedonia
(năm 326 TCN) cũng gặp phải đoàn tượng binh của Ấn Độ. Thời kỳ cổ đại, văn minh
Ấn Độ đề cao giá trị của loài voi trong chiến tranh. Họ ví rằng “Quân đội mà
không có tượng binh thật đáng coi thường, khác gì rừng không có sư tử, nước
không có vua, hay lòng can đảm mà đánh bằng tay không” (Wikipedia, 2013). Voi
chiến còn phát triển mạnh ở Myanmar, Thái Lan…
Tại Việt Nam, kỹ thuật sử dụng voi chiến đã có từ khá sớm.
Các tài liệu Việt Nam và Trung Quốc từng ghi nhận trong cuộc khởi nghĩa ở Mê
Linh của Hai Bà Trưng năm 40 (thế kỷ 1 sau Công nguyên) đã sử dụng lực lượng
voi chiến đánh lại quân nhà Đông Hán. Rất nhiều hình ảnh ghi nhận Hai Bà chỉ
huy trên mình voi (Hình 7). Một hình ảnh tương tự ghi nhận rằng Bà Triệu năm
248 cũng sử dụng voi chiến trong cuộc khởi nghĩa chống quân Ngô (thời Tam Quốc).
Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, voi chiến được xem là
một lực lượng đặc biệt sử dụng trong chiến trận. Do thế phòng thủ trước các triều
đại phương Bắc, vốn không có tượng binh, thì ưu thế của phía Việt Nam về lực lượng
tượng binh là rõ rệt, chẳng hạn như việc sử dụng tượng binh trong chiến dịch
nghĩa quân Lam Sơn ra Bắc hay quân Tây Sơn công phá thành Ngọc Hồi vào ngày
mùng 5 tết Kỷ Dậu, 30/1/1789. Sự phát triển vượt bậc chính là sự kiện vua Quang
Trung đã đặt pháo trên lưng voi trong chiến dịch đánh thành Ngọc Hồi làm quân
Mãn Thanh phải khiếp sợ. Thực tế là các lực lượng quân sự Việt Nam đã huấn luyện
và sử dụng lực lượng voi chiến trong cả nghìn năm lịch sử.
Khi hình thái chiến tranh hiện đại bắt đầu, voi chiến trở
nên lỗi thời trước sức mạnh của đại bác, nhà Nguyễn vẫn tiếp tục huấn luyện lực
lượng voi chiến trong đội tượng binh của quân đội nhà Nguyễn. Các cuộc tử chiến
giữa voi và hổ nhằm tế thần trong ngày hội và phục vụ nhu cầu giải trí tiêu khiển
cho vua, quan lại và người dân vẫn được tổ chức tại Hổ Quyền (kinh thành Huế).
Trận đấu voi – hổ cuối cùng được ghi nhận vào năm 1904, dưới triều vua Thành
Thái (Hình 8 và 9).
Ở Trung Hoa, việc sử dụng những con voi chiến tương đối hiếm
so với các nơi khác. Những ghi chép sớm nhất về việc sử dụng voi của họ diễn ra
vào cuối năm 554 khi nhà Tây Ngụy triển khai hai con voi chiến mặc giáp sắt từ
Lĩnh Nam trong trận chiến, điểu khiển bởi những nô lệ Mã Lai, và được trang bị
tháp bằng gỗ và những thanh gươm gắn chặt vào cái vòi của chúng. Các con voi đã
phải quay đầu bỏ chạy bởi các mũi tên của cung thủ.
Điều đó cho thấy tại sao khi Chaturanga vào Việt Nam được
chuyển đổi thành cờ Tướng dễ được người Việt Nam chấp nhận và phổ biến nhanh
chóng không chỉ ở tầng lớp trên mà cả trong quân đội và nhân dân ở tất cả các lễ
hội trong mọi vùng đất nước, bởi hình ảnh quân Tượng có liên quan mật thiết đến
tượng binh (voi chiến) trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc
ta. Vì thế trong tiếng Việt người Việt Nam chưa bao giờ gọi quân Tượng là quân
Tương (bộ Tượng kỳ của Trung Hoa có quân Tương, 相) và
trong bộ cờ Tướng truyền thống của người Việt Nam chỉ có duy nhất một chữ Hán cổ
của người Việt gọi là chữ Tượng (象, tức voi). Trong số
các quốc gia có môn cờ Tướng phát triển thì Việt Nam và Trung Hoa là 2 quốc gia
nằm trong số đó, với thời gian khoảng trên 1.300 năm, bởi cờ Tướng hình thành ở
2 nước từ thế kỷ 7-8.
Mặc dù có tới trên 1000 năm Bắc thuộc (từ năm 179TCN-939), cờ
Tướng ở Việt Nam và Tượng kỳ ở Trung Hoa đã hình thành và phát triển ở thế kỷ
7-8 (trong thời kỳ Bắc thuộc bởi phong kiến phương Bắc xâm chiếm Việt Nam) song
vẫn có những sự khác biệt giữa cờ Tướng ở Việt Nam và Tượng kỳ ở Trung Hoa, nhất
là ở thời kỳ độc lập tự chủ hoàn toàn của Việt Nam, kể từ khi Ngô Quyền xưng
vương vào năm 939.
Cờ tướng Việt Nam tuy được du nhập từ Trung Quốc vào nhưng
trải qua một quá trình tồn tại trên đất Việt, cờ tướng đã được biến đổi nên có
ít nhiều điểm khác biệt so với tượng kỳ Trung Hoa. Điều đó càng thêm khẳng định
được những giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam trong trò chơi trí tuệ
này. Mong rằng, trong tương lai, cờ tướng Việt Nam sẽ có thêm những cải tiến
khác nữa để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và đưa cờ tướng Việt Nam tiếp
tục đi trên những đỉnh cao.
Đăng nhận xét